Khi nào thì cháu được hường di sản thừa kế của ông, bà?

Khi nói đến vấn đề thừa kế di sản từ ông bà, nhiều người thường đặt ra câu hỏi: “Khi nào thì cháu có quyền được hưởng thừa kế?” Đây không chỉ là một câu hỏi liên quan đến tài sản, mà còn liên quan đến các quy định pháp lý và các yếu tố tình cảm trong gia đình. Việc thừa kế di sản không chỉ phụ thuộc vào mối quan hệ huyết thống mà còn bị chi phối bởi các quy định của pháp luật về thừa kế, di chúc, và thứ tự phân chia. Để trả lời được câu hỏi này, cần phải xem xét kỹ lưỡng từng trường hợp cụ thể, từ đó hiểu rõ các điều kiện và thời điểm mà cháu có thể được hưởng thừa kế từ ông bà.

Di sản thừa kế là tài sản mà một người để lại sau khi qua đời, bao gồm quyền sử dụng đất, nhà cửa, tiền bạc, cổ phiếu và các loại tài sản khác. Vấn đề cháu có được hưởng di sản thừa kế của ông bà hay không phụ thuộc vào một số yếu tố theo quy định của pháp luật. Cụ thể cháu sẽ được hưởng di sản thừa kế của ông bà trong những trường hợp sau:

Thừa kế theo di chúc

Căn cứ theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di chúc như sau:

Di chúc là sự thể hiện của cá nhân nhằm chuyển phần tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Nếu ông, bà có lập di chúc để lại tài sản cho cháu, thì cháu có quyền hưởng di sản thừa kế theo đúng nội dung của di chúc. Di chúc hợp pháp phải tuân thủ các quy định về hình thức và nội dung của pháp luật, bao gồm:

  • Người lập di chúc có đủ năng lực hành vi dân sự tại thời điểm lập di chúc.
  • Nội dung di chúc không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
  • Di chúc thể hiện rõ ý chí của người lập, và phải tuân thủ các quy định về hình thức (viết tay, đánh máy, có công chứng, hoặc không công chứng tùy trường hợp).

Cháu sẽ được hưởng tài sản theo ý nguyện của ông bà khi di chúc hợp lệ.

Ví dụ: Ông M có một khối tài sản gồm một ngôi nhà và một mảnh đất. Ông M có 3 người con: anh T, chị L và anh H. Cả ba người con đều đã lập gia đình và có con riêng, trong đó:

  • Anh T có 2 người con là bé G và bé P.
  • Chị L có một người con là bé A.
  • Anh H có một người con là bé B.

Ông M đã lập di chúc trước khi mất. Trong di chúc, ông M phân chia tài sản của mình như sau:

  • Ngôi nhà sẽ được chia đều cho ba người con của ông là anh T, chị L và anh H.
  • Mảnh đất sẽ được để lại cho cháu ngoại là bé A (con của chị Lan) và cháu nội là bé G (con của anh T). Bé P và bé B không được nhắc đến trong di chúc.

Theo nội dung di chúc này, sau khi ông Minh qua đời, di sản của ông sẽ được chia như sau:

  • Ngôi nhà sẽ được chia đều cho anh T, chị L và anh H theo đúng nội dung của di chúc.
  • Mảnh đất sẽ thuộc về bé A và bé G, vì ông M đã chỉ định để lại tài sản này cho hai người cháu này trong di chúc. Bé P và bé B sẽ không được hưởng phần di sản này vì không được đề cập trong di chúc.

Di chúc của ông M có hiệu lực pháp lý, nên việc phân chia tài sản phải tuân theo ý chí của ông, dù các cháu khác (gồm bé P và bé B) không được nhận tài sản.

Thừa kế thế vị

Căn cứ tại Điều 652 Bộ luật Dân sự quy định về thừa kế thế vị như sau:

  • Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu cha hoặc mẹ cháu còn sống;
  • Nếu cháu cũng chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cha hoặc mẹ chắt còn sống.

Theo quy định của pháp luật thì con của ông bà, tức là cha hoặc mẹ của cháu sẽ được hưởng phần di sản của ông, bà để lại theo hàng thừa kế thứ nhất nhưng vì cha hoặc mẹ mất trước ông, bà thì cháu sẽ được thay cha hoặc mẹ của mình để được hưởng phần di sản thừa kế của ông bà.

Ví dụ: Ông N có ba người con: anh B, chị H và anh K. Anh B có hai người con là bé L và bé M. Chị H và anh K đều chưa có con.

  • Anh B (con trai cả của ông N) không may qua đời do tai nạn giao thông trước khi ông N qua đời.
  • Ông N qua đời sau đó mà không để lại di chúc.

Theo quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm có: anh B (đã mất), chị H và anh K. Tuy nhiên, vì anh B đã qua đời trước ông N, nên hai người con của anh B (bé L và bé M) sẽ được thừa kế thế vị phần di sản mà lẽ ra anh B sẽ được nhận nếu còn sống.

Trong trường hợp này, bé L và bé M không thuộc hàng thừa kế thứ nhất (vì bố của các bé là anh B lẽ ra sẽ được nhận phần di sản), nhưng do anh B đã qua đời trước ông N, nên các cháu được thừa kế thế vị phần của bố mình. Do đó, phần di sản mà bé L và bé M nhận được chính là phần di sản mà anh B sẽ nhận nếu còn sống.

Thừa kế theo pháp luật do không có hàng thừa kế thứ nhất

Trong trường hợp ông bà không để lại di chúc, hoặc di chúc không hợp lệ, thì di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật, cụ thể là theo các hàng thừa kế quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự như sau:

  • Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người đã chết;
  • Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người người chết; cháu ruột của người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  • Ở hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 

Những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng phần di sản khi không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, bị tước quyền hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản.

Trường hợp ông bà không còn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất còn sống để hưởng di sản thừa kế thì cháu (thuộc hàng thừa kế thứ 2) sẽ được hưởng di sản của ông bà.

Ví dụ: Ông P có một khối tài sản gồm một căn nhà và một mảnh đất. Ông P không lập di chúc trước khi qua đời. Ông P có một người con trai là anh T, anh T có một người con là bé D, anh T đã qua đời trước ông Phúc do bệnh tật. Vợ của ông P đã mất từ nhiều năm trước, và ông P không còn cha mẹ cũng như anh chị em ruột. Khi ông P qua đời, các thành viên trong gia đình chỉ còn lại bé D và vợ của anh T là chị Y.

Theo quy định của pháp luật về thừa kế, phần di sản thừa kế sẽ được chia theo các hàng thừa kế, nhưng ở hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, cha ruột, mẹ ruột, con ruột của ông P đều đã qua đời. Do đó, phần di sản của ông P sẽ được chia cho người thuộc hàng thừa kế thứ 2 là cháu D.

Cháu hưởng di sản thừa kế của ông bà khi bố, mẹ chưa khai nhận di sản thừa kế đã mất

Trường hợp sau khi mở thừa kế mà cha, mẹ của cháu chưa đi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì đã mất thì số di sản thừa kế của ông, bà mà cha, mẹ được hưởng sẽ trở thành di sản của cha, mẹ và con sẽ được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản thừa kế đó.

Như vậy, việc cháu có được hưởng di sản thừa kế của ông, bà hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm quy định của pháp luật về hàng thừa kế, di chúc của người để lại di sản, và các điều kiện khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ thừa kế. Nếu ông, bà không để lại di chúc, cháu có thể được thừa kế theo pháp luật nếu thuộc hàng thừa kế thứ hai hoặc được thừa kế thế vị khi cha, mẹ đã qua đời trước.

Mọi thắc mắc cần giải đáp hoặc yêu cầu dịch vụ, vui lòng liên hệ chúng tôi thông qua các kênh sau:

Địa chỉ: 236 Điện Biên Phủ, Phường 17, Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh

Hotline: 08.9999.8608

Facebook: fb://profile.php?id=61559523707474

Zalo: zalo.me/84899998608

Tiktok: www.tiktok.com/@luatbachkhoa.vn

Email: Luatbachkhoa8608@gmail.com

Nguồn: Luật Bách Khoa

Kiến thức liên quan