Trong các gia đình hiện đại, mối quan hệ giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế trở nên ngày càng phổ biến. Cùng với đó, câu hỏi về quyền thừa kế của con riêng khi cha dượng hoặc mẹ kế qua đời trở thành một vấn đề pháp lý đáng quan tâm. Việc con riêng có được hưởng di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế hay không không chỉ phụ thuộc vào yếu tố tình cảm mà còn gắn liền với các quy định pháp luật hiện hành.
Con riêng có được hưởng di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế để lại hay không?

i. Quan hệ thừa kế giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế
Căn cứ theo quy định tại Điều 654 Bộ luật Dân sự quy định về quan hệ thừa kế giữ con riêng và bố dượng, mẹ kế như sau:
Giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo thừa kế thế vị, quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ.
Ví dụ: Anh A kết hôn với bà B, bà B đã có con riêng là chị C từ cuộc hôn nhân trước. Trong suốt thời gian sống chung, ông A và chị C có quan hệ thân thiết, ông A yêu thương và chăm sóc chị C như con ruột của mình. Sau khi chị C trưởng thành đi làm và lập gia đình, chị gửi tiền hàng tháng để chăm sóc, phụng dưỡng ông A.
ii. Thừa kế thế vị
Căn cứ tại Điều 652 Bộ luật Dân sự quy định về thừa kế thế vị như sau:
- Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu cha hoặc mẹ cháu còn sống;
- Nếu cháu cũng chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cha hoặc mẹ chắt còn sống.
Ví dụ: Ông T có 3 người con trai là Q, A và P. Trong đó, anh Q đã qua đời trước khi ông T qua đời, và anh Q có 2 người con là E và M. Khi ông T qua đời, không có di chúc, tài sản của ông T trong trường hợp này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật.
Theo quy định nêu trên thì các con của ông T là A và P sẽ được chia phần di sản của ông T theo quy định thừa kế hàng thứ nhất. Tuy nhiên, vì anh Q đã chết trước, nên phần di sản mà anh Q có thể nhận sẽ được chia cho 2 người con là E và M theo nguyên tắc thừa kế thế vị.
Đồng thời, con riêng vẫn có thể thừa kế phần di sản của cha dượng, mẹ kế để lại nếu có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc như cha con, mẹ con.
iii. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi
Căn cứ tại Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi sẽ được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo pháp luật, thừa kế thế vị.
Việc phân chia di sản theo pháp luật đối với con riêng được quy định thế nào?
Theo quy định tại Điều 660 Bộ luật Dân sự về phân chia di sản theo pháp luật như sau:
- Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng thừa kế đã hình thành thai nhưng chưa được sinh ra thì phải để lại một phần di sản bằng phần di sản mà người thừa kế khác được hưởng để khi người thừa kế được sinh ra thì sẽ được hưởng, trường hợp nếu người thừa kế chế trước khi sinh ra thì phần di sản đó sẽ được những người thừa kế khác hưởng.
- Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật, trường hợp không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận với nhau về việc định giá hiện vật và người nhân hiện vật, nếu không thỏa thuận được thì có thể bán hiện vật để chia.
Khi chia di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế theo pháp luật thì con riêng sẽ thuộc hàng thừa kế nào?

Căn cứ tại Điều 651 Bộ luật Dân sự quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người đã chết;
- Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người người chết; cháu ruột của người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Ở hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, con riêng sẽ được hưởng di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế trong trường hợp giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ con. Lúc này quan hệ giữa con riêng và cha dượng, mẹ kế sẽ được xem là quan hệ thừa kế giữa con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ và sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất như đã nêu trên.
Ví dụ: Ông H kết hôn với bà T. Trước khi kết hôn với ông H, bà T đã có một con riêng là chị C từ cuộc hôn nhân trước. Sau khi về chung sống, ông H yêu thương và chăm sóc chị C như con ruột, nhưng không làm thủ tục nhận con nuôi chính thức, và chị C coi ông H như cha ruột và sống dưới sự chăm sóc, nuôi dưỡng của ông H.
Nhiều năm sau, ông H qua đời và không để lại di chúc. Tài sản của ông H để lại bao gồm một căn nhà trị giá 5 tỷ đồng và 2 tỷ đồng tiền tiết kiệm. Sau khi ông H mất, việc phân chia di sản được tiến hành theo pháp luật. Chị C đã được ông A chăm sóc và nuôi dưỡng lâu dài như một người cha.
Vì không có di chúc, di sản của ông A sẽ được chia theo pháp luật. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ là bà T, con là chị C. Di sản của ông H để lại là 7 tỷ đồng sẽ được chia đều cho vợ và con, mỗi người hưởng được 3,5 tỷ đồng.
Những trường hợp nào con riêng không được hưởng di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế?
Con riêng sẽ không được hưởng di sản thừa kế trong các trường hợp được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự bao gồm:
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản;
- Hành vi nghiêm trọng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm về tính mạng của những người thừa kế khác nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản làm người thừa kế đó có quyền được hưởng;
- Có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo, sửa đổi, phá hủy di chúc, che đậy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người đã mất để lại.
- Những người nêu trên vẫn có thể được hưởng di sản nếu người để lại di sản biết rõ về hành vi của người đó nhưng vẫn chấp nhận cho người đó được hưởng di sản theo di chúc.
Ngoài ra, con riêng sẽ không được hưởng di sản thừa kế của cha dượng, mẹ kế khi di chúc của người đã chết để lại không hợp pháp, không chứng minh được quan hệ giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con.
Như vậy, con riêng không tự động được hưởng di sản thừa kế của cha dượng hoặc mẹ kế nếu không có mối quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng hợp pháp. Tuy nhiên, con riêng có thể được hưởng di sản nếu có di chúc hợp pháp chỉ định hoặc nếu tồn tại một mối quan hệ nuôi dưỡng đủ mạnh để pháp luật công nhận. Trong trường hợp này, việc lập di chúc có thế để tránh những tranh chấp không đáng có giữa các thành viên trong gia đình sau khi một bên qua đời.
Mọi thắc mắc cần giải đáp hoặc yêu cầu dịch vụ, vui lòng liên hệ chúng tôi thông qua các kênh sau:
Địa chỉ: 236 Điện Biên Phủ, Phường 17, Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh
Hotline: 08.9999.8608
Facebook: fb://profile.php?id=61559523707474
Zalo: zalo.me/84899998608
Tiktok: www.tiktok.com/@luatbachkhoa.vn
Email: Luatbachkhoa8608@gmail.com
Nguồn: Luật Bách Khoa