Lợi tức thu được từ tài sản riêng thi có được chia cho vợ, chồng?

Trong hôn nhân, tài sản và quyền lợi liên quan luôn là những vấn đề nhạy cảm và dễ phát sinh tranh chấp, đặc biệt là khi liên quan đến tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Một câu hỏi quan trọng thường gặp là liệu lợi tức thu được từ tài sản riêng của một bên có được xem là tài sản chung và có cần chia sẻ cho người còn lại hay không. Câu trả lời cho vấn đề này phụ thuộc vào các quy định của pháp luật hôn nhân gia đình, đặc biệt là các quy định về tài sản chung và tài sản riêng, cũng như các thỏa thuận trước hôn nhân hoặc trong quá trình sống chung của hai vợ chồng.

Quy định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng

i. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng

Căn cứ theo quy định tại Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình như sau:

  • Vợ chồng bình đẳng với nhau về các quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, định đoạt tài sản chung, không phân biệt giữa lao động có thu nhập và lao động trong gia đình.

Ví dụ: Anh A và chị T kết hôn vào năm 2013. Anh A làm việc tại một công ty với mức lương cao, trong khi chị T ở nhà chăm sóc con cái và làm các công việc nội trợ. Mặc dù chị T không có thu nhập trực tiếp từ lao động tạo ra thu nhập, nhưng chị đã đóng góp rất lớn trong việc chăm sóc gia đình và duy trì cuộc sống chung. Sau 10 năm kết hôn, vợ chồng anh A và chị T cùng nhau mua được một căn nhà từ số tiền anh A tiết kiệm từ thu nhập. Khi quyết định mua nhà, anh A và chị T thỏa thuận cùng đứng tên chung trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.

Trong trường hợp này, mặc dù chỉ có anh A có thu nhập từ công việc, nhưng tài sản mua được vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Đóng góp của chị T vào công việc gia đình (chăm sóc con cái, làm nội trợ) cũng được xem là phần công sức tạo lập tài sản chung. Cả hai vợ chồng bình đẳng trong quyền quyết định đối với căn nhà, bao gồm việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung này.

  • Vợ, chồng có nghĩa vụ đảm bảo điều kiện để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình

Ví dụ: Anh H và chị K đã kết hôn được 7 năm và có hai con nhỏ. Anh H là kỹ sư, công việc của anh có thu nhập ổn định. Chị K làm giáo viên và cũng có thu nhập, nhưng không cao bằng anh H. Tuy nhiên, cả hai đều có trách nhiệm đảm bảo điều kiện sống tốt cho gia đình và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu như ăn uống, học hành của con cái, chăm sóc sức khỏe và duy trì cuộc sống chung.

Mỗi tháng, anh H và chị K thống nhất chia sẻ các khoản chi tiêu gia đình theo khả năng tài chính của mỗi người. Anh H chịu trách nhiệm trả tiền học phí cho các con và các khoản chi lớn hơn như tiền thuê nhà, tiền điện nước. Chị K chịu trách nhiệm mua thực phẩm hàng ngày, chi phí sinh hoạt nhỏ hơn, và chăm sóc con cái khi anh H đi làm xa.

  • Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng mà xâm phậm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của, vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.

Ví dụ: Anh Q và chị L kết hôn được 3 năm, anh chị đã cùng nhau tiết kiệm và mua một chiếc xe ô tô. Họ đã thỏa thuận rằng xe sẽ được sử dụng cho các mục đích chung của gia đình, bao gồm đưa đón con cái đi học và đi du lịch vào cuối tuần.

Tuy nhiên, vào một ngày anh Q đã cho một người bạn mượn xe mà không thông báo cho chị L. Người bạn này đã lái xe không cẩn thận và gây ra tai nạn giao thông, làm hư hại nghiêm trọng chiếc xe và gây thương tích cho một người khác. Khi sự việc xảy ra, chị L rất tức giận vì anh Q đã tự ý cho người khác mượn xe, không có sự đồng ý của chị và làm tổn hại đến tài sản chung của gia đình mà không có sự đồng ý của chị. Ngoài ra, chị L cũng phải đối mặt với các khoản chi phí sửa chữa xe và các khoản bồi thường cho người bị thương do tai nạn.

Trong trường hợp này, anh Q đã tự ý cho người khác mượn xe mà không có sự đồng ý của chị L, xâm phạm đến quyền sở hữu và sử dụng tài sản chung của hai vợ chồng. Hành động này không chỉ làm thiệt hại tài sản chung mà còn có thể gây ra hậu quả pháp lý đối với cả hai vợ chồng. Do đó, chị L có quyền yêu cầu anh Q phải bồi thường cho các khoản chi phí phát sinh từ việc sửa chữa xe và các khoản bồi thường cho người bị thương.

Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được xem là tài sản chung hay tài sản riêng?

Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định như sau: Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng sẽ được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình.

  • Tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân thì là tài sản chung của vợ chồng.
  • Và tại khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Ngoài ra, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định của khoản 2 Điều 10 của Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia đình thì lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình.

Qua đó, có thể kết luận rằng:

  • Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận của hai vợ chồng.
  • Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật định hoặc không có thỏa thuận về lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì theo quy định lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của vợ chồng;
  • Trường hợp lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì phần lợi tức phát sinh đó là tài sản riêng của vợ, chồng trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác.

Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn sẽ chia như thế nào?

Khoản lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng cần phải xem xét căn cứ để xác định nó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng. 

  • Nếu lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng hình thành trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng thì khi ly hôn sẽ được chia theo thỏa thuận hoặc có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo luật định.
  • Nếu lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng hình thành trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản riêng của vợ chồng hoặc được chia trong thời kỳ hôn nhân và xác định là tài sản riêng thì theo nguyên tắc tài sản riêng của vợ chồng sẽ do vợ chồng quản lý không chia khi vợ chồng ly hôn, trừ trường hợp có tranh chấp thì có thể yêu cầu tòa án xác định tài sản chung hay riêng của vợ chồng.

Như vậy, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng sẽ không tự động chia giữa hai bên. Theo quy định của pháp luật, tài sản riêng của mỗi bên vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó, bao gồm cả các khoản lợi tức phát sinh từ tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp có thỏa thuận giữa hai bên, lợi tức này có thể được chia cho vợ, chồng. Do đó, việc xây dựng các thỏa thuận rõ ràng và minh bạch về tài sản và lợi tức là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của cả hai vợ chồng, đồng thời giảm thiểu rủi ro phát sinh tranh chấp trong quá trình chung sống.

Mọi thắc mắc cần giải đáp hoặc yêu cầu dịch vụ, vui lòng liên hệ chúng tôi thông qua các kênh sau:

Địa chỉ: 236 Điện Biên Phủ, Phường 17, Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh

Hotline: 08.9999.8608

Facebook: fb://profile.php?id=61559523707474

Zalo: zalo.me/84899998608

Tiktok: www.tiktok.com/@luatbachkhoa.vn

Email: Luatbachkhoa8608@gmail.com

Nguồn: Luật Bách Khoa

Kiến thức liên quan